Welcome to My Blog!

Nguyễn Lê Thiên Hương
Follow Me
Trước khi bắt đầu nghiên cứu những kĩ thuật và công cụ cụ thể được sử dụng trong phân tích kĩ thuật, điều cần thiết đầu tiên phải định nghĩa phân tích kĩ thuật là gì, thảo luận những tiền đề triết học mà nó dựa trên, đưa ra những khác biệt rõ ràng giữa phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật, cuối cùng trả lời cho hai chỉ trích thường xuyên được nêu ra phản bác phân tích kĩ thuật.

Đầu tiên: định nghĩa chủ đề. Phân tích kĩ thuật là nghiên cứu diễn biến giá, chủ yếu sử dụng đồ thị, với mục đích dự đoán xu thế giá tương lai.

Phương pháp phân tích kỹ thuật được xây dựng dựa trên 3 tiên đề:

1. Diễn biến thị trường phản ánh mọi thứ.
2. Giá chuyển động theo xu hướng.
3. Lịch sử lập lại.

Diễn biến thị trường phản ánh mọi thứ

Lời tuyên bố diễn biến thị trường phản ánh mọi thứ có thể được xem là nền tảng của phân tích kỹ thuật. Nếu như tầm quan trọng của tiên đề đầu tiên này không được hiểu đầy đủ và được công nhận, những điều được nói phía sau thực sự chẳng có ý nghĩa gì cả. Những người phân tích kỹ thuật tin rằng bất kỳ thứ gì có thể ảnh hưởng tới giá (các yếu tố cơ bản, chính trị, tâm lý, vv) đều được phản ánh trên giá cả của thị trường đó. Vì vậy, việc nghiên cứu diễn biến giá cả là điều duy nhất được yêu cầu. Mặc dù luận điệu này có vẻ quá táo bạo, nhưng chúng ta sẽ thấy thật khó để phản bác lại nếu chịu bỏ thời gian tìm hiểu ý nghĩa đích thực của nó.

Tất cả các nhà phân tích kỹ thuật (technician) khẳng định rằng diễn biến giá cả phản ánh sự thay đổi giữa cung và cầu. Nếu cầu vượt cung, giá phải tăng. Nếu cung vượt cầu, giá phải giảm. Quá trình này là cơ sở của tất cả các dự báo kinh tế và cơ bản. các technician sau đó lại lật ngược vấn đề và kết luận rằng nếu giá cả tăng, vì bất kỳ một lý do nào, cầu phải vượt cung và các yếu tố cơ bản phải khả quan. Nếu giá cả rớt, các yếu tố cơ bản phải trở nên bất lợi. Chúng ta không có gì phải ngạc nhiên khi những lời nhận xét về các yếu tố cơ bản được đưa ra trong khi đang bàn về phân tích kỹ thuật. Nói chung là các technician đang gián tiếp nghiên cứu những yếu tố cơ bản. Hầu hết họ đều đồng ý rằng chính lực cung và cầu hay những yếu tố cơ bản là nguyên nhân tạo nên dao động thị trường. Biểu đồ không thể khiến cho thị trường đi lên hay xuống được. Nó chỉ phản ánh tâm lý lạc quan hay bi quan của thị trường.

Như một nguyên tắc, những nhà phân tích biểu đồ (chartist) không quan tâm đến lý do tại sao giá tăng hay giảm. Thường thì vào giai đoạn đầu của một xu hướng giá hay tại những điểm ngoặt, không ai có thể biết chính xác tại sao thị trường lại diễn ra như vậy. Mặc dù phương pháp kỹ thuật thỉnh thoảng bị đơn giản thái quá, lô-gích đằng sau tiên đề đầu tiên này sẽ trở nên thuyết phục hơn nếu chúng ta có được nhiều kinh nghiệm thị trường hơn. Điều này có nghĩa rằng nếu những thứ mà tác động lên giá thị trường cuối cùng cũng được phản ánh trong giá thị trường, thì việc nghiên cứu giá cả là điều cần thiết duy nhất. Bằng cách nghiên cứu biểu đồ giá và một loạt những chỉ số kỹ thuật hỗ trợ, những chartist trên thực tế để cho thị trường cho họ biết nó có khả năng cao nhất sẽ đi theo hướng nào. Họ không cần thiết phải cố gắng để thắng thị trường. Tất cả những dụng cụ kỹ thuật được thảo luận phía sau đơn giản chỉ là những kỹ thuật được sử dụng để hỗ trợ họ trong quá trình nghiên cứu diễn biến thị trường. Những chartist hiểu rằng thị trường lên hay xuống chắc chắn phải có lý do. Họ chỉ không tin rằng biết được những lý do đó là cần thiết trong quá trình dự báo.


Giá chuyển động theo xu hướng

Khái niệm về xu hướng tuyệt đối quan trọng trong phương pháp kỹ thuật. Mục đích của vẽ diễn biến giá của một thị trường là xác định những xu hướng trong giai đoạn đầu phát triển để chúng ta có thể dựa vào đó mà giao dịch theo đúng chiều của xu hướng. Trên thực tế, hầu hết những kỹ thuật được sử dụng trong phương pháp này thực chất là đi theo xu hướng, có nghĩa là mục tiêu của những kỹ thuật này là xác định ra những xu hướng hiện thời và đi theo chúng.


Hệ quả của tiên đề này là giá chuyển động theo xu hướng – một xu hướng đang chuyển động có khuynh hướng chuyển động cùng chiều hơn là đảo chiều. Hệ quả này là sự áp dụng của định luật 1 Newton về chuyển động. Chúng ta có thể nói theo cách khác là một xu hướng đang chuyển động sẽ tiếp tục chuyển động cùng chiều cho đến khi nó đảo chiều. Điều này có vẻ lòng vòng lẩn quẩn nhưng toàn bộ phương pháp đi theo xu hướng đều dựa trên việc lướt theo xu hướng sẵn có cho đến khi nó có dấu hiệu đảo chiều.

Lịch sử lập lại

Phần lớn nội dung của phân tích kỹ thuật và nghiên cứu diễn biến thị trường liên quan tới việc nghiên cứu tâm lý con người. Ví dụ những mẫu hình trên biểu đồ được xác định và xếp loại trong hơn một trăm năm qua, chúng có khả năng phản ánh một số hình ảnh nhất định trong biểu đồ giá. Những hình ảnh này tiết lộ tâm lý phấn khởi hay bi quan của thị trường. Những mẫu hình được xây dựng dựa trên việc nghiên cứu tâm lý con người mà tâm lý và tính cách của con người thì dường như không thay đổi theo thời gian. Bởi vậy nếu mẫu hình nào cho kết quả tốt trong quá khứ, người ta tin rằng nó sẽ tiếp tục cho kết quả tốt trong tương lai. Hay nói cách khác, để hiểu rõ tương lai, chúng ta phải lật lại quá khứ, hay tương lai chỉ là sự lập lại của quá khứ.


Dự đoán bằng kĩ thuật so với cơ bản.

Trong khi phân tích kĩ thuật tập trung vào nghiên cứu diễn biến thị trường, phân tích cơ bản tập trung vào lực cung cầu của nền kinh tế làm cho giá tăng lên, giảm xuống hay không thay đổi. Phương pháp cơ bản xem xét tất cả các yếu tố liên quan tác động đến giá trên thị trường để xác định giá trị thực của thị trường. Giá trị thực là điều mà nhà cơ bản cho rằng thật sự đáng dựa trên quy luật cung cầu. Nếu giá trị thực thấp hơn trong thị giá hiện thời, vậy thì thị trường định giá quá cao và nên bán đi. Nếu thị giá hiện thời thấp hơn giá trị thực, vậy thị trường đang định giá thấp và nên mua.

Cả hai phương pháp dự đoán này cố giải quyết vấn đề, đó là xác định hướng đi chuyển của giá. Họ chỉ tiếp cận vấn đề từ các chiều khác nhau. Các nhà phân tích cơ bản nghiên cứu nguyên nhân vận động của thị trường, trong khi các nhà phân tích kĩ thuật nghiên cứu kết quả. Dĩ nhiên, các nhà phân tích kĩ thuật cho rằng kết quả là tất cả, điều cô hoặc anh ta muốn hay cần biết và nguyên nhân hay lý do là không cần thiết. Các nhà cơ bản luôn phải biết tại sao.

Hầu hết các người giao dịch tự phân chia thành hoặc là những người phân tích cơ bản hoặc là phân tích kĩ thuật. Thực sự, không có nhiều khác biệt. Nhiều nhà phân tích cơ bản dùng kiến thức thực nghiệm của nguyên lý cơ bản phân tích biểu đồ. Đồng thời, nhiều nhà phân tích kĩ thuật ít nhất có kiến thức chung về phân tích cơ bản. Vấn đề là biểu đồ và các yếu tố cơ bản thường xung đột lẫn nhau. Thông thường tại những điểm bắt đầu của một xu hướng quan trọng của thị trường, các yếu tố cơ bản không lý giải hoặc hỗ trợ diễn biến hiện thời của thị trường. Đó là những thời điểm quan trọng trong xu thế mà hai phương pháp này có vẻ khác nhau nhiều nhất. Thông thường họ đáp lại bằng những quan điểm đồng bộ, nhưng những người giao dịch quá trễ để hành động.

Một lý giải cho những khác biệt bên ngoài này là giá thị trường có khuynh hướng đi trước những yếu tố cơ bản được biết. Nói cách khác, giá thị trường hoạt động như là chỉ báo chủ đạo của các yếu tố cơ bản hay là những hiểu biết chính yếu lúc này. Khi mà những yếu tố cơ bản được biết đã phản ánh vào Thị trường và nó đã “trong thị thường”, giá hiện thời phản ánh những yếu tố cơ bản chưa biết. Trong hầu hết các đợt thị trường tăng giảm mạnh trong quá khứ bắt đầu khi các yếu tố cơ bản hoặc thay đổi ít hoặc không nhận biết được. Lúc này, những thay đổi mới được biết tới, xu thế mới đang diễn tiến tốt.

Một lúc sau, các nhà phân tích kĩ thuật tự tin hơn về khả năng phân tích biểu đồ của anh ta. Các nhà phân tích kĩ thuật học cách thoải mái khi mà thị trường diễn biến giống với cái gọi là sự hiểu biết thông thường. Một người phân tích kĩ thuật cảm thấy thoải mái khi ở trong thiểu số. Anh ta biết rằng cuối cùng những lý do về diễn biến của Thị trường sẽ phổ biến. Đó chính là điều mà các nhà phân tích kĩ thuật không sẵn sàng chờ xác nhận thêm.

Khi chấp nhận các giả thuyết phân tích kĩ thuật, người ta có thể hiểu tại sao các nhà phân tích kĩ thuật tin rằng phương pháp của họ tốt hơn các nhà phân tích cơ bản. Nếu một người giao dịch phải chọn chỉ một trong hai phương pháp để sử dụng, sự lựa chọn hợp lý phải là phân tích kĩ thuật. Bởi vì, theo định nghĩa, phương pháp kĩ thuật bao gồm cơ bản. Nếu các yếu tố cơ bản phản ánh vào thị trường, vậy thì việc nghiên cứu các yếu tố cơ bản đó không cần thiết. Phân tích biểu đồ trở nên một hình thức ngắn gọn của phân tích cơ bản. Tuy nhiên, điều ngược lại thì không đúng. Phân tích cơ bản không bao gồm việc nghiên cứu diễn biến giá. Có thể giao dịch trong thị trường tài chỉnh mà chỉ dùng phân tích kĩ thuật. Không nghi ngờ rằng không người nào chỉ dùng phân tích cơ bản mà không xem xét đến các yếu tố kĩ thuật của thị trường.

Phân tích so với xác định thời điểm

Quan điểm cuối cùng này phải được làm rõ nếu quá trình ra quyết định được chia thành 2 giai đoạn – phân tích và xác định thời điểm.

Bởi vì yếu tố đòn bẩy cao trong trong thị trường tương lai, việc xác định thời điểm đặc biệt quan trọng trong đấu trường đó. Bạn có thể đúng trong xu thế lớn của thị trường nhưng vẫn mất tiền. Bởi vì số tiền kí quĩ quá nhỏ trong giao dịch tương lai (luôn ít hơn 10% ), một dịch chuyển giá tương đối nhỏ theo chiều hướng ngược lại có thể buộc người giao dịch rời bỏ thị trường với kết quả thua lỗ hết hoặc phần lớn tiền kí quĩ. Ngược lại, trong thị trường giao dịch cổ phiếu, người giao dịch nhận thấy sai xu thế thị trường có thể đơn giản nắm giữ cổ phiếu, hy vọng nó quay trở lại một lúc nào đó.

Người giao dịch trong thị trường tương lai không có sự xa xỉ đó. Chiến lược “mua và nắm giữ” không áp dụng cho thị trường tương lai. Cả hai phương pháp phân tích cơ bản và kĩ thuật có thể được sử dụng trong giai đoạn đầu - quá trình dự đoán. Tuy nhiên, việc xác định thời điểm, xác định điểm vào điểm ra cụ thể, hầu hết đơn thuần là kĩ thuật. Do đó, xem xét nhiều bước người giao dịch phải làm trước khi vào thị trường. Những ứng dụng nguyên lý phân tích kĩ thuật đúng trở nên không thể thiếu nhiều thời điểm trong quá trình, dù là phân tích cơ bản được áp dụng trong giai đoạn đầu của quá trình quyết định. Việc xác định thời điểm cũng quan trọng trong việc lựa chọn cổ phiếu riêng lẻ và trong việc mua bán trong nhiều thị trường và các nhóm ngành.


Tính linh động và khả năng thích ứng của phân tích kĩ thuật.

Một trong những sức mạnh lớn của phân tích kĩ thuật là tính thích ứng của nó gần như với bất cứ hoàn cảnh và khung thời gian nào. Không có thị trường cổ phiếu hoặc tương lai nào mà những qui tắc này không ứng dụng được.

Người phân tích biểu đồ có thể dễ dàng tham gia nhiều thị trường như mong muốn, nhìn chung không đúng với người phân tích cơ bản tương ứng của anh ta. Bởi vì số lượng dữ liệu khổng lồ phải xử lý sau đó, hầu hết các nhà phân tích cơ bản phải chuyên môn hoá. Các lợi thế này không được phớt lờ.

Ví dụ, trong giai đoạn thị trường sôi động và đóng băng, có xu thế hoặc không. Các nhà phân tích kĩ thuật tập trung sự chú ý và nguồn lực vào các thị trường có xu thế mạnh và phớt lờ các thị trường khác. Cuối cùng, người phân tích biểu đồ có thể luân phiên sự tập trung và vốn để tận dụng trạng thái luân chuyển của các thị trường. Tại những thời điểm khác nhau, những thị trường cụ thể trở nên “nóng” và trải qua những xu thế chính. Thông thường, sau những giai đoạn thị trường có xu thế là những lúc thị trường không có xu thế hoặc trầm lắng, khi đó các thị trường hoặc nhóm ngành khác thay thế. Các nhà phân tích kĩ thuật tự do lựa chọn. Tuy nhiên, các nhà phân tích cơ bản có khuynh hướng chuyên biệt hoá trong một nhóm ngành, không có tính linh động. Dù anh ta tự do chuyển nhóm ngành, những nhà phân tích cơ bản phải mất nhiều thời gian khó khăn hơn các nhà phân tích biểu đồ.

Một lợi thế khác của người phân tích kĩ thuật là “bức tranh lớn”. Bằng cách theo dõi tất cả các thị trường, anh ta có một cảm nhận tốt về tổng thể thị trường anh ta đang làm, và tránh sự “phiến diện” do chỉ theo dõi một nhóm ngành của thị trường. Hơn nữa, bởi vì có quá nhiều thị trường có mối liên hệ kinh tế gắn liền và phản ứng với các mối liên hệ kinh tế giống nhau, diễn biến giá trong một thị trường hoặc nhóm thị trường có thể cho các đầu mối giá trị cho chiều hướng tương lai của thị trường hoặc nhóm thị trường khác.

Dự đoán kinh tế

Phân tích kĩ thuật có thể đóng vai trò trong việc dự đoán kinh tế. Ví dụ, chiều hướng của giá hàng hoá cho chúng ta biết vài điều về xu hướng lạm phát. Chúng cũng cho chúng ta biết sức mạnh hay yếu của nền kinh tế. Nhìn chung giá cả hàng hoá tăng gợi ý nền kinh tế mạnh lên và áp lực lạm phát tăng lên. Giá hàng hoá giảm luôn cảnh báo kinh tế tăng trưởng chậm cùng với lạm phát. Tóm lại, biểu đồ thị trường hàng hoá như vàng, dầu, cùng với Trái Phiếu cho chúng ta biết nhiều về sức mạnh yếu của nền kinh tế và dự doán lạm phát. Chiều hướng của đồng đôla, tương lai của các ngoại tệ cũng cho biết sớm sức mạnh hay yếu của kinh tế toàn cầu tương ứng. Thậm chí ấn tượng hơn là trong thực tế những thị trường tương lai luôn cho thấy khá lâu trước khi chúng phản ánh trong các chỉ báo kinh tế truyền thống được xuất bản hàng quí hàng tháng, và luôn cho chúng ta biết điều đã xảy ra. Như tên chúng ngụ ý, thị trường tương lai luôn cho chúng ta cái nhìn bên trong hình thành tương lai.


Những chỉ trích phương pháp Phân Tích Kĩ Thuật

Nhìn chung, có vài câu hỏi đưa ra trong các buổi thảo luận về phương pháp phân tích kĩ thuật. Một trong các mối quan tâm là lý thuyết tiền đề. Những câu hỏi khác là có thực sự dùng dữ liệu giá trong quá khứ để dự đoán chiều hướng giá tương lai hay không. Những người chỉ trích thường nói những điều như: “Biểu đồ cho chúng ta biết Thị trường đang ở đâu nhưng không thể cho biết nó sẽ đi tới đâu”. Tạm thời, chúng ta chỉ trả lời đơn giản rằng biểu đồ chẳng cho bạn biết điều gì nếu bạn không biết cách phân tích nó. Lý thuyết Bước Ngẫu Nhiên chất vấn Giá có xu hướng hay nghi ngờ các kĩ thuật dự đoán có thể đánh bại chiến lược mua và giữ đơn giản hay không. Các câu hỏi này đáng được trả lời.


Lý thuyết tiền đề

Câu hỏi là lý thuyết tiền đề có tồn tại không dường như làm nhiều người khó chịu bởi vì nó được nêu lên thường xuyên. Dĩ nhiên đó là mối bận tâm hợp lý, nhưng nó không quá quan trọng như mọi người nhận thấy. Có lẽ cách tốt nhất để trả lời câu hỏi này là trích dẫn một đoạn thảo luận về những điều bất lợi khi sử dụng những mẫu hình biểu đồ:

a. Cách sử dụng hầu hết mẫu hình được phổ biến rộng rãi nhiều thập kỉ trước. Nhiều người giao dịch biết rõ những mẫu hình này và thường hành động theo chúng. Điều này tạo ra “lý thuyết tiền đề”, như những con sóng mua hay bán được tạo ra do phản ứng theo các mẫu hình tăng hay giảm.

b. Những mẫu hình biểu đồ hầu như hoàn toàn chủ quan. Chưa có nghiên cứu nào thành công trong việc định lượng đúng bất cứ mẫu hình nào. Chúng thực chất là theo suy nghĩ của người xem…

Hai lời chỉ trích này mâu thuẫn lẫn với nhau và quan điểm thứ hai bác bỏ quan điểm đầu. Nếu mẫu hình giá “hoàn toàn chủ quan” và “theo suy nghĩ người xem”, vậy thì khó mà hình dung sao mọi người nhận ra những điều giống nhau trong cùng thời điểm, đây là nền tảng của lý thuyết tiền đề. Những người chỉ trích không thể nói cả hai. Một mặt, họ không thể chỉ trích biểu đồ quá khách quan và rõ ràng rằng mọi người sẽ hành động giống nhau đồng thời(do đó tạo nên khuôn mẫu giá được hoàn thành), và sau đó cũng chỉ trích biểu đồ quá chủ quan.

Sự thật của vấn đề là biểu đồ rất chủ quan. Việc phân tích biểu đồ là một nghệ thuật.(Có lẽ từ “kĩ năng” chính xác hơn cho quan điểm này.) Mẫu hình biểu đồ hiếm khi quá rõ ràng ngay cả những người phân tích kinh nghiệm ko lúc nào có cùng cách giải thích.

Mặc dù, hầu hết người phân tích kĩ thuật đồng ý về việc dự đoán thị trường, không nhất thiết họ và thị trường cùng thời điểm vào với cách thức giống nhau. Một số người cố gắng dự đoán tín hiệu biểu đồ đề vào thị trường sớm. Những người khác mua khi “bức phá” khỏi những những mẫu hình hoặc chỉ báo cụ thể. Những người còn lại chờ điều chỉnh sau bức phá mới hành động. Nhiều người giao dịch thì hăng hái, người khác thì dè dặt. Nhiều người dùng lệnh dừng vào thị trường, trong khi những người khác dùng lệnh thị trường và lệnh giới hạn. Nhiều người giao dịch trong thời gian dài, trong khi người khác giao dịch trong ngày. Do đó, khả năng những người phân tích kĩ thuật hành động tại cùng thời điểm theo cùng một cách thực sự khá xa vời.

Mặc dù lý thuyết tiền đề là mối quan tâm chính, có lẽ nó sẽ “tự điều chỉnh” về bản chất. Nói cách khác, những người giao dịch dựa nhiều vào biểu đồ cho đến khi hành động phối hợp của họ bắt đầu ảnh hưởng và bóp méo thị trường. Khi người giao dịch thấy điều này xảy ra họ dừng sử dụng biểu đồ và điều chỉnh chiến thuật giao dịch. Ví dụ, họ hoặc cố gắng hành động trước đám đông hoặc chờ lâu hơn để xác nhận rõ ràng. Do đó, mặc dù lý thuyết tiền đề trở thành vấn đề trong ngắn hạn, nó sẽ có xu hướng tự điều chỉnh.

Luôn nhớ rằng thị trường tăng hay giảm chỉ xảy ra và duy trì khi nó được chứng minh qua quy luật cung và cầu. Có lẽ người phân tích kĩ thuật không thể tạo nên xu thế chính của Thị trường chỉ bằng lực mua bán của mình. Nếu đúng như vậy, tất cả những người phân tích kĩ thuật sẽ trở nên giàu có nhanh chóng.

Nhìn chung, lý thuyết tiên đề được liệt kê như là những chỉ trích phân tích biểu đồ. Có lẽ xem đó là những lời khen ngợi thì phù hợp hơn. Cuối cùng, với bất kì kĩ thuật dự đoán quá phổ biến nó bắt đầu gây ảnh hưởng, nó hẳn là khá tốt. Chúng ta có thể tự nghĩ tại sao mối quan tâm ít khi được nêu ra đối với việc sử dụng phân tích cơ bản.


Có thể dùng Quá khứ để dự đoán Tương lai?

Một câu hỏi khác đưa ra mối quan tâm tính hợp lý của việc dùng dữ liệu giá quá khứ để dự đoán tương lai. Nhiều chỉ trích phương pháp phân tích kĩ thuật về vấn đề này làm ngạc nhiên bởi vì, từ việc dự báo thời tiết đến phân tích cơ bản, hoàn toàn dựa trên nghiên cứu dữ liệu quá khứ. Có dữ liệu nào khác để nghiên cứu?

Lãnh vực số liệu thống kê có sự khác biệt giữa số liệu thống kê miêu tả và số liệu thống kê qui nạp. Số liệu thống kê miêu tả nói đến cách trình bày dữ liệu bằng hình ảnh, như biểu đồ giá trên biểu đồ thanh tiêu chuẩn. Số liệu thống kê quy nạp nói đến sự khái quát hoá, dự đoán, và loại suy được suy ra từ dữ liệu đó. Do đó, chính biểu đồ giá nằm trong phần hình ảnh, trong khi người phân tích kĩ thuật thực hiện dữ liệu đó lại rơi vào phần qui nạp.

Theo một đoạn văn thống kê ”Bước đầu tiên để dự đoán tương lai của nền kinh tế hoặc công ty, do đó, bao gồm tập hợp những quan sát trong quá khứ.” (Freund và Williams). Phân tích biểu đồ là một dạng khác của phân tích chuỗi thời gian, dựa trên nghiên cứu quá khứ, chính xác là làm gì trong tất cả dạng phân tích chuỗi thời gian. Chỉ có một loại dữ liệu mà mọi người phải dùng là dữ liệu quá khứ. Chúng ta chỉ có thể dự đoán tương lai bằng cách dùng những kinh nghiệm quá khứ vào tương lai.

Do đó dường như việc sử dụng dữ liệu giá quá khứ để dự đoán tương lai trong phân tích kĩ thuật dựa trên khái niệm số liệu thống kê hợp lý. Nếu người nào chất vấn nghiêm túc về khía cạnh dự đoán bằng phân tích kĩ thuật, anh ta hoặc cô ta phải đặt câu hỏi về sự hợp lý của mỗi hình thức dự đoán khác dựa trên dữ liệu lịch sử, bao gồm tất cả phân tích cơ bản và kinh tế.

Buitrangnam - Ub.com.vn


NHẬN DIỆN VÀ XỬ LÝ
SAI SÓT KẾ TOÁN







Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ kế toán, kế toán doanh nghiệp có thể phạm phải những sai sót nhất định. Các sai sót này ảnh hưởng đến tính trung thực, hợp lý của thông tin kế toán; Đồng thời có thể ảnh hưởng tới nghĩa vụ pháp lý của DN đối với Ngân sách Nhà nước (NSNN).
TS. Lưu Đức Tuyên - Học viện Tài chính

Nhận diện các sai sót của kế toán
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 29 thay đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán và sai sót xác định sai sót có thể phát sinh từ việc ghi nhận, xác định giá trị, trình bày và thuyết minh các khoản mục trên Báo cáo tài chính; trong đó:
- Sai sót phát sinh từ việc ghi nhận các khoản mục bao gồm sai sót trong việc ghi nhận các khoản mục tài sản, nợ phải trả, thu nhập, chi phí khi chưa thỏa mãn các điều kiện mà kế toán chưa ghi nhận để trình bày trên BCTC trong kỳ.
- Sai sót trong việc xác định giá trị các khoản mục bao gồm các sai sót do tính toán, xác định giá gốc, phân bổ giá gốc các khoản mục tài sản, nợ phải trả, xác định thu nhập, chi phí...
- Sai sót trong phân loại, trình bày và thuyết minh về các khoản mục bao gồm sai sót do sử dụng sai tài khoản, ghi sai quan hệ tài khoản dẫn đến trình bày trên BCTC không đúng khoản mục và các sai sót do thuyết minh không đầy đủ theo quy định.
Đặc điểm các sai sót trong kế toán
Để nắm bắt được ảnh hưởng của các sai sót và áp dụng các phương pháp xử lý sai sót phù hợp, cần phải hiểu rõ những đặc điểm của các sai sót trong áp dụng chính sách, sai sót trong tính toán, diễn giải
Hai, Sai sót kế toán thường có ảnh hưởng mang tính hệ thống. Điều này xuất phát từ mối quan hệ của các đối tượng kế toán và tính logic của chu trình kế toán. Do vậy, sai sót kế toán thường không mang tính đơn lẻ. Kế toán DN phải nhận diện và xử lý các sai sót một cách có hệ thống.
Ba, sai sót kế toán có thể dẫn đến sai sót trong kê khai, quyết toán nghĩa vụ thuế của DN đối với NSNN. Do vậy, việc xử lý sai sót cần được tiếp cận từ góc độ chuẩn mực kế toán và từ góc độ các quy định của chính sách thuế Nhà nước.
Thực trạng xử lý sai sót kế toán của các DN hiện nay
Với việc các hoạt động kinh tế tài chính phát sinh ngày càng đa dạng, các quy định về kế toán ngày càng phức tạp, việc các DN gặp phải những sai sót trong kế toán là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, trong việc xử lý các sai sót kế toán tại các DN hiện nay vẫn tồn tại một số vấn đề cần khắc phục:
Một là, Nhiều DN chưa phân loại sai sót một cách phù hợp để lựa chọn áp dụng phương pháp xử lý thích hợp. Các sai sót kế toán thường được xử lý theo cùng một phương pháp là điều chỉnh trực tiếp vào sổ kế toán kì phát hiện ra sai sót.
Hai là, việc công bố và thuyết minh về sai sót trong kế toán còn rất hạn chế dẫn đến làm giảm tính minh bạch và khả năng so sánh của thông tin kế toán. Đa số các DN không thuyết minh về các sai sót trên các BCTC.
Ba là, nhiều kế toán và DN còn nhầm lẫn giữa các sai sót kế toán với các sai sót trong sử dụng thông tin kế toán chấp hành chính sách thuế. Chính vì vậy, các DN còn nhầm lẫn trong việc xử lý sai sót liên quan đến sử dụng thông tin kế toán cho mục đích kê khai, quyết toán thuế với NSNN.
Xuất phát từ tình trạng trên, chúng tôi cho rằng, việc phân loại và xử lý các sai sót cần phải được thực hiện một cách triệt để để trên cơ sở các quy định của luật và chuẩn mực kế toán hiện hành.
Yêu cầu của việc xử lý sai sót kế toán là phải đảm bảo tính công khai, minh bạch và nhất quán, đảm bảo người sử dụng thông tin kế toán hiểu đúng bản chất và ảnh hưởng của sai sót đến số liệu trên BCTC của DN. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 29, để xử lý sai sót, kế toán cần xem xét mức độ ảnh hưởng của sai sót và phân biệt các loại sai sót (bảng 1).







Quy trình áp dụng thủ tục hồi tố có thể khái quát như sau:
- Xác định ảnh hưởng của sai sót đến các yếu tố trên BCTC của các năm bị ảnh hưởng, bao gồm ảnh hưởng của sai sót đến số liệu từng năm và ảnh hưởng có tính lũy kế đến các chỉ tiêu của BCTC.
- Điều chỉnh ảnh hưởng lũy kế đến đầu năm hiện tại của sai sót đối với các yếu tố vào số dư đầu năm hiện tại của các tài khoản kế toán bị ảnh hưởng (Điều chỉnh tăng hoặc giảm số dư bị ảnh hưởng).
- Điều chỉnh số liệu được sử dụng để lập các cột thông tin so sánh của báo cáo năm hiện tại.
- Thuyết minh bản chất của sai sót đã được phát hiện. Đồng thời công bố điều chỉnh số liệu so sánh của các kỳ báo có bị ảnh hưởng bởi sai sót (Số liệu điều chỉnh được công bố dưới dạng một phụ lục của thuyết minh).
Xử lý sai sót theo pháp luật thuế hiện hành.
Thông thường, các sai sót trong quá trình ghi sổ và lập BCTC của kế toán có thể dẫn đến sai sót về nghĩa vụ thuế của DN. Với các sai sót này, về góc độ quản lý thuế, DN phải xác định ảnh hưởng lũy kế của các sai sót này đến nghĩa vụ thuế phải nộp và phải kê khai bổ sung vào các tờ khai thuế một cách kịp thời. Nếu là sai sót trong kỳ của kế toán, phát hiện trước khi tờ khai quyết toán thuế được nộp, DN phải thực hiện điều chỉnh vào tờ khai trước khi nộp cho cơ quan Thuế quản lý.
Nếu là sai sót các kỳ trước, được phát hiện kỳ này, DN phải xác định ảnh hưởng lũy kế của sai sót đến nghĩa vụ thuế và thực hiện kê khai bổ sung, đồng thời tự xác định các khoản phạt vi phạm hành chính, lãi chậm nộp thuế (nếu có) và thực hiện nộp thuế bổ sung, tiền phạt kịp thời theo quy định hiện hành.
Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế - tài chính theo hướng ngày càng đa dạng, hệ thống chuẩn mực kế toán cũng ngày càng phức tạp hơn. Các sai sót phát sinh trong công tác kế toán là điều khó tránh khỏi đối với các DN. Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế ở Việt Nam, nguồn nhân lực về kế toán ở các DN còn nhiều hạn chế. Do vậy, việc hiểu và thống nhất áp dụng quy trình và phương pháp điều chỉnh các sai sót theo các chuẩn mực kế toán sẽ đảm bảo việc khắc phục các sai sót được công khai, minh bạch, giảm thiểu ảnh hưởng của sai sót đối với người sử dụng thông tin cũng như đảm bảo DN chấp hành tốt nghĩa vụ thuế đối với Ngân sách Nhà nước.

(Theo TCKT&KT

bạn có thể tham khảo thêm :
Những sai sót thường gặp khi hạch toán kế toán.
Những sai sót thường gặp khi hạch toán kế toán

Tổng hợp những sai sót  thường gặp khi hạch toán kế toán . Mình nghĩ rất cần cho những bạn vừa ra trường  , đọc qua 1 lần để biết mà còn tránh . Chúc bạn thành công ^^

  • Số tiền trên phiếu thu, chi khác trên sổ sách kế toán.
  • Số dư quỹ tiền mặt âm do hạch toán phiếu chi trước phiếu thu.
  • Chênh lệch tiền mặt tồn quỹ thực tế và biên bản kiểm kê quỹ.
  • Phiếu thu, phiếu chi chưa lập đúng quy định (thiếu dấu, chữ kí của thủ trưởng đơn vị, kế toán trưởng, thủ quỹ,…); không có hoặc không phù hợp với chứng từ hợp lý hợp lệ kèm theo; chưa đánh số thứ tự, phiếu viết sai không không lưu lại đầy đủ; nội dung chi không đúng hoạt động kinh doanh.
  • Phiếu chi trả nợ người bán hàng mà người nhận là cán bộ công nhân viên trong Công ty nhưng không có phiếu thu hoặc giấy nhận tiền của người bán hàng kèm theo để chứng minh số tiền này đã được trả tới người bán hàng.
  • Vi phạm nguyên tắc bất kiêm nhiệm: kế toán tiền mặt đồng thời là thủ quỹ, chứng từ kế toán xếp chung với chứng từ quỹ, sổ quỹ và sổ kế toán không tách biệt…
  • Thủ quỹ có quan hệ gia đình với Giám đốc, kế toán trưởng.
  • Ghi lệch nhật kí chi tiền; số cái, sổ quỹ, không khớp nội dung, số tiền.
  • Ghi chép, phân loại, phản ánh chưa hợp lí (không hạch toán tiền đang chuyển …)
  • Hoạch toán thiếu nghiệp vụ thu chi phát sinh.
  • Cùng một hóa đơn nhưng thanh toán hai lần, thanh toán tiền lớn hơn số ghi trên hợp đồng, hóa đơn.
  • Không có báo cáo quỹ tiền mặt định kì, thủ quỹ và kế toán không thường xuyên đối chiếu.
  • Hạch toán thu chi ngoại tệ theo các phương pháp không nhất quán, không theo dõi nguyên tệ.
  • Cuối kì không đánh giá lại ngoại tệ hoặc đánh giá không theo tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng vào thời điểm cuối năm.
  • Chưa có biên bản tiền mặt tồn quỹ, biên bản kiểm kê thiếu chữ kí của thủ quỹ và kế toán trưởng; không thành lập hội đồng kiểm kê, không có chữ kí của Giám đốc và thành viên Hội đồng kiểm kê quỹ trên biên bản.
  • Biên bản kiểm kê có số tiền dư đến đơn vị đồng.
  • Hạch toán theo giấy báo Nợ, báo Có ngân hàng chưa kịp thời.
  • Chưa mở sổ theo dõi chi tiết theo từng ngân hàng.
  • Chênh lệch sổ sách kế toán với biên bản đối chiếu với ngân hàng, với các bảng cân đối số phát sinh.
  • Phản ánh không hợp lí các khoản rút quá số dư, gửi tiền, tiền lãi vay…
  • Tên người nhận trên ủy nhiệm chi và tên đối tượng công nợ của các đơn vị không trùng nhau.
  • Không theo dõi nguyên tệ đối với các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ.
  • Chưa đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối năm hoặc áp dụng sai tỷ giá đánh giá lại.
  • Chưa hạch toán đầy đủ lãi tiền gửi ngân hàng hoặc hạch toán lãi tiền gửi NH không khớp với sổ phụ NH.
  • Chưa mở sổ theo dõi chi tiết từng loại chứng khoán.
  • Không tiến hành trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán ngắn hạn.
  • Không hạch toán lãi lỗ kinh doanh chứng khoán hoặc hạch toán khi chưa có đầy đủ hóa đơn chứng từ.
  • Đầu tư ngắn hạn khác không mang tính chất đầu tư mà là các khoản phải thu khác (thu tiền chi phân phối sai chế độ cho cán bộ công nhân viên).
  • Cuối kì không đánh giá lại dự phòng để hoàn nhập dự phòng hoặc trích thêm.
  • Không có bằng chứng chứng từ hợp lệ chứng minh cho khoản đầu tư.
  • Không có xác nhận của đối tượng nhận đầu tư về khoản đầu tư của Công ty.
  • Không bù trừ cùng đối tượng hoặc bù trừ công nợ không cùng đối tượng.
  • Chưa có sổ chi tiết theo dõi chi tiết từng đối tượng phải thu.
  • Cùng một đối tượng nhưng theo dõi trên nhiều tài khoản khác nhau.
  • Quy trình phê duyệt bán chịu không đầy đủ, chặt chẽ: chưa có quy định về số tiền nợ tối đa, thời hạn thanh toán…
  • Chưa tiến hành đối chiếu hoặc đối chiếu công nợ không đầy đủ vào thời điểm lập Báo cáo tài chính.
  • Hạch toán sai nội dung, số tiền, tính chất tài khoản phải thu, hạch toán các khoản phải thu không mang tính chất phải thu thương mại vào TK131.
  • Cơ sở hạch toán công nợ không nhất quán theo hóa đơn hay theo phiếu xuất kho, do đó đối chiếu công nợ không khớp số.
  • Hạch toán giảm công nợ phải thu hàng bán trả lại, giảm giá hàng bán nhưng không có hóa đơn, chứng từ hợp lệ.
  • Ghi nhận các khoản trả trước cho người bán không có chứng từ hợp lệ. Các khoản đặt trước tiền hàng cho người bán hoặc có mối quan hệ kinh tế lâu dài, thường xuyên với các tổ chức kinh tế khác nhưng không tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế giữa hai bên.
  • Ghi nhận tăng phải thu không phù hợp với ghi nhận tăng doanh thu. Công tác luân chuyển chứng từ từ bộ phận kho lên phòng kế toán chậm nên hạch toán phải thu khi bán hàng không có chứng từ kho như phiếu xuất hàng…
  • Không lập dự phòng đối với những khoản nợ quá hạn.
  • Cuối kỳ chưa đánh giá lại các khoản phải thu có gốc ngoại tệ.
  • Không phân loại tuổi nợ, không có chính sách thu hồi, quản lý nợ hiệu quả.
  • Các khoản xóa nợ chưa tập hợp được đầy đủ hồ sơ theo quy định. Không theo dõi nợ khó đòi đã xử lý.
  • Không hạch toán lãi thanh toán nợ quá hạn.
  • Chưa tiến hành phân loại các khoản phải thu theo quy định mới: phân loại dài hạn và ngắn hạn.
  • Hạch toán phải thu không đúng kì, khách hàng đã trả nhưng chưa hạch toán.
  • Theo dõi khoản thu các đại lý về lãi trả chậm do vượt mức dư nợ nhưng chưa xác định chi tiết từng đối tượng để có biện pháp thu hồi.
  • Chưa lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi hoặc lập dự phòng nhưng trích thiếu hoặc trích thừa, vượt quá tỉ lệ cho phép.
  • Hồ sơ lập dự phòng chưa đầy đủ theo quy định.
  • Không thành lập hội đồng xử lý công nợ khó đòi và thu thập đầy đủ hồ sơ các khoản nợ đã xóa nợ cho người mua.
  • Tổng mức lập dự phòng cho các khoản nợ khó đòi lớn hơn 20% tổng dư nợ phải thu cuối kì.
  • Cuối kì chưa tiến hành đánh giá lại để hoàn nhập dự phòng hay trích thêm.
  • Không theo dõi chi tiết các khoản phải thu khác.
  • Chưa tiến hành đối chiếu các khoản phải thu bất thường, tài sản thiếu chờ xử lý không có biên bản kiểm kê, không xác định được nguyên nhân thiếu để quy trách nhiệm.
  • Hạch toán vào TK 1388 một số khoản không đúng bản chất.
  • Không phân loại các khoản phải thu khác ngắn hạn và dài hạn theo quy định.
  • Không kiểm kê HTK tại thời điểm 31/12 năm tài chính.
  • Ghi nhận hàng tồn kho không có đầy đủ hóa đơn, chứng từ hợp lệ: không ghi phiếu nhập kho, không có biên bản giao nhận hàng, không có biên bản đánh giá chất lượng hàng tồn kho.
  • Xác định và ghi nhận sai giá gốc hàng tồn kho.
  • Ghi nhận nhập kho không có hóa đơn chứng từ hợp lệ: mua hàng hóa với số lượng lớn nhưng không có hợp đồng, hóa đơn mua hàng không đúng quy định (thu mua hàng nông sản chỉ lập bảng kê mà không viết hóa đơn thu mua hàng nông sản theo quy định của Bộ tài chính).
  • Không làm thủ tục nhập kho cho mỗi lần nhập mà phiếu nhập kho gộp chung cho cả một khoảng thời gian dài.
  • Không đối chiếu thường xuyên giữa thủ kho và kế toán.
  • Chênh lệch kiểm kê thực tế và sổ kế toán, thẻ kho, chênh lệch sổ chi tiết, sổ cái, bảng cân đối kế toán.
  • Không tách biệt thủ kho, kế toán HTK, bộ phận mua hàng, nhận hàng.
  • Lập phiếu nhập xuất kho không kịp thời, hạch toán xuất kho khi chưa ghi nhận nhập kho.
  • Phiếu nhập xuất kho chưa đúng quy định: không đánh số thứ tự, viết trùng số, thiếu chữ kí, các chỉ tiêu không nhất quán…
  • Không lập bảng kê chi tiết cho từng phiếu xuất kho, không viết phiếu xuất kho riêng cho mỗi lần xuất.
  • Giá trị hàng tồn kho nhập kho khác giá trị trên hóa đơn và các chi phí phát sinh.
  • Chưa lập bảng kê chi tiết cho từng phiếu nhập xuất kho.
  • Quyết toán vật tư sử dụng hàng tháng chậm.
  • Chưa lập bảng tổng hợp nhập – xuất – tồn định kỳ hàng tháng, hàng quý; bảng tổng hợp số lượng từng loại nguyên vật liệu tồn kho để đối chiếu với số liệu trên sổ kế toán.
  • Không lập bảng kê tính giá đối với từng loại hàng tồn kho.
  • Không lập biên bản kiểm nghiệm vật tư nhập kho, mua hàng sai quy cách, chất lượng, chủng loại… nhưng vẫn hạch toán nhập kho.
  • Hạch toán sai: không hạch toán theo phiếu xuất vật tư và phiếu nhập kho vật tư đã xuất nhưng không dùng hết mà chỉ hạch toán xuất kho theo số chênh lệch giữa phiếu xuất vật tư lớn hơn phiếu nhập lại vật tư.
  • Hạch toán hàng tồn kho giữ hộ vào TK152 mà không theo dõi trên tài khoản ngoài bảng 002.
  • Nguyên vật liệu, vật tư, hàng hóa kém chất lượng theo biên bản xác định giá trị doanh nghiệp không được xuất ra khỏi sổ sách.
  • Khi lập BCTC hợp nhất HTK ở tài khoản 136,138 tại chi nhánh không được điều chỉnh về TK 152.
  • Không hạch toán phế liệu thu hồi. Nguyên vật liệu xuất thừa không hạch toán nhập lại kho.
  • Hạch toán sai: HTK nhập xuất thẳng không qua kho vẫn đưa vào TK 152, 153.
  • Không hạch toán hàng gửi bán, hay hạch toán chi phí vận chuyển, bốc xếp vào hàng gửi bán, giao hàng gửi bán nhưng không kí hợp đồng, chỉ viết phiếu xuất kho thông thường.
  • Phương pháp tính giá xuất kho, xác định giá trị sản phẩm dở dang chưa phù hợp hoặc không nhất quán.
  • Phân loại sai TSCĐ là hàng tồn kho (công cụ, dụng cụ), không phân loại nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, thành phẩm, hàng hóa.
  • Phân bổ công cụ, dụng cụ theo tiêu thức không phù hợp, không nhất quán; không cóa bảng tính phân bổ công cụ dụng cụ xuất dung trong kì.
  • Không trích lập dự phòng giảm giá HTK hoặc trích lập không dựa trên cơ sở giá thị trường, lập dự phòng cho hàng hóa giữ hộ không thuộc quyền sở hữu của đơn vị. Trích lập dự phòng không đủ hồ sơ hợp lệ.
  • Chưa xử lý vật tư, hàng hóa phát hiện thừa, thiếu khi kiểm kê.
  • Chưa theo dõi chi tiết từng loại vật tư, nguyên vật liệu, hàng hóa…
  • Chưa đối chiếu, kiểm kê, xác nhận với khách hàng về HTK nhận giữ hộ.
  • Hạch toán nhập xuất HTK không đúng kì.
  • Đơn giá, số lượng HTK âm do luân chuyển chứng từ chậm, viết phiếu xuất kho trước khi viết phiếu nhập kho.
  • Xuất kho nội bộ theo giá ấn định mà không theo giá thành sản xuất.
  • Xuất kho nhưng không hạch toán vào chi phí.
  • Xuất vật tư cho sản xuất chỉ theo dõi về số lượng, không theo dõi về giá trị.
  • Không theo dõi riêng thành phẩm và phế phẩm theo tiêu thức kế toán và tiêu thức kĩ thuật, chưa xử lý phế phẩm.
  • Không theo dõi hàng gửi bán trên TK hàng tồn kho hoặc giao hàng gửi bán nhưng không kí hợp đồng mà chỉ viết phiếu xuất kho thông thường.
  • Hàng gửi bán đã được chấp nhận thanh toán nhưng vẫn để trên TK 157 mà chưa ghi nhận thanh toán và kết chuyển giá vốn.
  • Công cụ, dụng cụ báo hỏng nhưng chưa tìm nguyên nhân xử lý hoặc vẫn tiếp tục phân bổ vào chi phí.
  • Chưa theo dõi chi tiết từng đối tượng tạm ứng.
  • Chênh lệch số kế toán và biên bản đối chiếu tạm ứng.
  • Chữ kí trên biên bản đối chiếu tạm ứng khác chữ kí trên biên bản chấm công, bản thanh toán lương.
  • Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng không ghi rõ thời hạn hoàn ứng, số tiền, lý do sử dụng, không có chữ kí của kế toán trưởng.
  • Công nợ tạm ứng cho cán bộ công nhân viên đã chuyển công tác vẫn chưa được thu hồi.
  • Kê khai khấu trừ thuế GTGT những hàng hóa không chiu thuế GTGT.
  • Chênh lệch sổ sách và tờ khai thuế, không giải thích được nguyên nhân.
  • Kê khai, hạch toán khấu trừ đối với hóa đơn GTGT trực tiếp hoặc hóa đơn không chịu thuế GTGT, hóa đơn không hợp lệ, hợp pháp.
  • Hàng mua được giảm giá chưa hạch toán giảm VAT đầu vào.
  • Kê khai thiếu hay sai hóa đơn, hóa đơn không đúng mẫu BTC quy định hoặc mẫu hóa đơn tự in đã đăng kí với Bộ tài chính.
  • Kê khai thuế đầu vào được khấu trừ đối với cả bộ phận nguyên vật liệu sản xuất dùng cho sản xuất hàng hóa chịu VAT trực tiếp.
  • Hạch toán khấu trừ thuế VAT đầu vào lớn hơn đầu ra phải nộp, để số âm trên BCTC.
  • Hàng gửi bán chưa được chấp nhận thanh toán nhưng đã hạch toán tăng doanh thu.
  • Chưa hạch toán hàng gửi bán bị trả lại.
  • Chưa có hóa đơn chứng từ, hợp đồng, cam kết hợp lệ.
  • Nội dung các khoản kí quỹ, kí cược không rõ ràng.
  • Chưa có đối chiếu xác nhận số dư với bên nhận kí quỹ, kí cược ngày khóa sổ kế toán cuối năm.
  • Hạch toán sai khoản cầm cố, kí quỹ, kí cược vào tài khoản phải thu khác 138.
  • Không theo dõi chi tiết từng loại.
  • Không tiến hành kiểm kê TSCĐ cuối kì, biên bản kiểm kê không phân loại TSCĐ không sử dụng, chờ thanh lý, đã hết khấu hao. Số chênh lệch trên sổ sách so với biên bản kiểm kê chưa được xử lý.
  • TSCĐ đưa vào hoạt động thiếu biên bản bàn giao, biên bản giao nhận.
  • Hạch toán tăng TSCĐ chưa kịp thời theo biên bản bàn giao (hạch toán không đúng kì).
  • Hạch toán tăng TSCĐ khi chưa có đầy đủ hóa đơn, chứng từ hợp lệ: quyết toán công trình, biên bản nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng…
  • Không theo dõi sổ chi tiết nguồn vốn hình thành TSCĐ. Không theo dõi riêng các TSCĐ đem cầm cố, thế chấp.
  • Phân loại TSCĐ vô hình sai: giá trị quyền sử dụng đất, chi phí đền bù và giải tỏa mặt bằng… Ghi nhận tăng nguyên giá tài sản cố định vô hình những nội dung không đúng quy định như chi phí thành lập Công ty, chi phí trong giai đoạn nghiên cứu…
  • Chênh lệch nguyên giá, khấu hao lũy kế giữa bảng cân đối số phát sinh, sổ cái, sổ chi tiết.
  • Phân loại sai: tài sản không đủ chỉ tiêu ghi nhận TSCĐ nhưng vẫn ghi nhận là TSCĐ, hạch toán nhậm TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.
  • Chưa lập phiếu thanh toán khối lượng XDCB tự làm đã hoàn thành.
  • Nâng cấp TSCĐ hoàn thành nhưng chưa ghi tăng nguyên giá TSCĐ, chưa xác định lại thời gian sử dụng hữu ích và điều chỉnh khấu hao phải trích vào chi phí trong kì.
  • Hạch toán tăng nguyên giá TSCĐ những nội dung không đúng chế độ quy định: ghi vào nguyên giá TSCĐ các chi phí phát sinh khi TSCĐ đã đưa vào sử dụng như chi phí lãi vay không được vốn hóa; chi phí sửa chữa lớn TSCĐ không mang tính nâng cấp, không làm tăng công suất hoặc thời gian sử dụng; ghi tăng nguyên giá không đúng với biên bản bàn giao, nghiệm thu…
  • Chưa đăng kí phương pháp trích khấu hao với cơ quan thuế địa phương.
  • Đơn vị áp dụng phương pháp tính, trích khấu hao không phù hợp, không nhất quán, xác định thời gian sử dụng hữu ích không hợp lí, mức trích khấu hao không đúng quy định, vượt quá mức khấu hao tối đa hoặc thấp hơn mức khấu hao tối thiểu được trích vào chi phí trong kì theo quy định tại QĐ 206.
  • Trích hoặc thôi trích khấu hao tròn tháng hoặc tròn quý mà không theo ngày đưa TSCĐ vào sử dụng hoặc ngưng trích theo ngày ngưng sử dụng.
  • Số khấu hao lũy kế chưa chính xác, khấu hao ở các bộ phận mà không được phân bổ.
  • Tài sản đã hết thời gian sử dụng nhưng vẫn chưa trích hết khấu hao. Số chưa trích hết không được hạch toán vào chi phí trong kì.
  • Vẫn trích khấu hao đối với tài sản đã khấu hao hết nhưng vẫn tiếp tục sử dụng.
  • Trích khấu hao tính vào chi phí cả những TSCĐ không sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
  • Trích khấu hao đối với tài sản thuê hoạt động hoặc không trích khấu hao TSCĐ đi thuê tài chính. Không theo dõi ngoại bảng đối với TSCĐ thuê hoạt động.
  • Chưa thực hiện đầy đủ thủ tục thanh lý TSCĐ: thành lập hội đồng thanh lý TSCĐ, quyết định thanh lý, không có biên bản thanh lý hoặc biên bản không có chữ kí của người có thẩm quyền…
  • Không phát hành hóa đơn khi bán TSCĐ thanh lý.
  • Hạch toán giảm TSCĐ khi thực tế chưa thanh lý, tháo dỡ, chưa có quyết định của HĐQT, Giám đốc,…
  • Không hạch toán đầy đủ, kịp thời thu nhập thu từ hoạt động thanh lý TSCĐ.
  • Đầu tư TSCĐ trước khi có sự phê duyệt của các cấp có thẩm quyền hoặc không có trong kế hoạch đầu tư được phê duyệt.
  • TSCĐ đầu tư không đúng nguồn, mục đích: TSCĐ phục vụ lợi ích công cộng được đầu tư.
  • Trích khấu hao vào chi phí SXKD những tài sản đầu tư bằng nguồn khác.
  • Thời điểm trích khấu hao không theo thời điểm ghi nhận TSCĐ.
  • Thực hiện khấu hao nhanh nhưng chưa đăng kí với cơ quan thuế địa phương và kết quả kinh doanh trong năm bị lỗ. Mức trích khấu hao nhanh vượt quá 1,2 lần so với khấu hao theo phương pháp đường thẳng.
  • TSCĐ không còn sử dụng chưa được thanh lý. TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý chưa được xuất ra khỏi sổ sách theo biên bản xác định giá trị doanh nghiệp, không được theo dõi tài sản ở ngoại bảng, vẫn tính và trích khấu hao tính vào chi phí.
  • TSCĐ điều chuyển nội bộ có giá trị còn lại trên quyết định điều chuyển không khớp sổ kế toán.
  • Chưa chuyển TSCĐ hữu hình có nguyên giá nhỏ hơn 10 triệu thành công cụ dụng cụ theo quyết định 206/BTC.
  • TSCĐ nhận bàn giao, góp vốn phải tiến hành đánh giá lại giá trị.
  • Đầu tư TSCĐ không hợp lý: quá nhiều hoặc dùng nguồn vay ngắn hạn để đầu tư.
  • Tài sản nhận điều động, điều chuyển theo quyết định của cấp trên chỉ ghi tăng nguyên giá mà không ghi nhận giá trị đã khấu hao.
  • TSCĐ thuê tài chính hạch toán trên TK 211,213.
  • Giá trị TSCĐ ghi nhận không phù hợp, TSCĐ được biếu tặng không được ghi nhận theo giá trị hợp lý, TS nhận bàn giao, góp vốn không được đánh giá lại khi giao nhận…
  • Điều chuyển TSCĐ nội bộ, giá trị còn lại trên Quyết định điều chuyển và sổ sách kế toán không khớp.
  • Một số TSCĐ có thời gian sử dụng còn lại khác nhau nhưng được gộp chung lại thành một tài sản hay một nhóm tài sản.
  • TSCĐ đầu tư bằng nguồn vơn NSNN, cho công nhân viên sử dụng nhưng không thu tiền để thu hồi vốn đầu tư.
  • Chưa tiến hành đánh giá lại TSCĐ khi thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp hoặc có đánh giá nhưng không phù hợp.
  • Không mở sổ theo dõi TSCĐ thuê tài chính
  • Thiếu hợp đồng thuê.
  • Phân loại nhầm TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động.
  • Nguyên giá TSCĐ thuê tài chính, hạch toán khấu hao TSCĐ thuê tài chính không đúng theo hợp đồng thuê.
  • Không theo dõi hoặc phân bổ tiền lãi thuê vào chi phí các kì không theo tiêu tức hợp lí. Hạch toán lãi vay TSCĐ thuê tài chính vào nguyên giá TSCĐ thuê tài chính.
  • Không có hồ sơ, hợp đồng góp vốn.
  • Không có đối chiếu số dư với đơn vị nhận vốn góp liên doanh.
  • Góp vốn không theo hợp đồng liên doanh.
  • Góp vốn liên doanh bằng tài sản nhưng không có biên bản bàn giao nhận tài sản, đánh giá lại tài sản.
  • Khi tham gia góp vốn liên doanh không nghiên cứu, đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của đối tác, dẫn đến công ty liên doanh bị lỗ, đơn vị góp vốn sẽ bị chia lỗ tương ứng với tỷ lệ góp vốn.
  • Chi phí XDCB dở dang cuối kì xác định chưa phù hợp, chỉ trên cơ sở ước tính.
  • Không có kế hoạch, dự toán thiết kế cho công trình xây dựng cơ bản, sửa chữa lớn TSCĐ,…
  • Không chi tiết các khoản đầu tư XDCB cuối kì là của công trình nào.
  • Chi phí XDCB dở dang tồn đọng từ nhiều kì chưa được xử lý, đầu tư tiếp…
  • Thủ tục đầu tư chưa đầy đủ: không có quyết định đầu tư, quyết định phê duyệt dự toán, không tổ chức đấu thầu, chào hàng…
  • Hồ sơ, chứng từ đầu tư thanh toán tiền chưa chặt chẽ: mua thiết bị không có hóa đơn, chi trả tiền cho đối tác nước ngoài, không thực hiện thanh toán qua NH.
  • Khoản chi cho hoạt động XDCB không có hóa đơn, chứng từ hợp lệ.
  • Giá trị trên Báo cáo chi tiết đầu tư từng công trình chênh lệch với sổ kế toán.
  • Thực hiện sửa chữa lớn không có phê duyệt của Tổng công ty/đạt tỷ lệ thấp.
  • Hạch toán sai: chi phí sửa chữa lớn không ghi tăng nguyên giá mà đưa vào chi phí SXKD trong kì.
  • Phân bổ chi phí sản xuất chung, chi phí khấu hao vào giá trị công trình chưa hợp lý, không có tiêu thức phân bổ thích hợp.
  • Công trình hoàn thành bàn giao đã đưa vào sử dụng nhưng chưa hạch toán tăng TSCĐ, chưa trích khấu hao.
  • Hạch toán vào chi phí XDCB dở dang những chi phí không có đầy đủ hóa đơn, chứng từ hoặc tập hợp thiếu.
  • Sửa chữa lớn không có kế hoạch, không dự trù kinh phí. Sửa chữa khi không có phiếu báo hỏng, khi hoàn thành không có quyết toán kinh phí sửa chữa, biên bản nghiệm thu hoàn thành bàn giao.
  • Không có biên bản đối chiếu công nợ với đối tượng nợ tại thời điểm cuối năm. Số liệu trên sổ kế toán không khớp với số liệu trên biên bản đối chiếu với công nợ nội bộ.
  • Không theo dõi chi tiết từng đối tượng có quan hệ thanh toán với đơn vị.
  • Hạch toán phải thu nội bộ khi không có đầy đủ hóa đơn, chứng từ hợp lệ.
  • Hạch toán phải thu nội bộ không đúng kì.
  • Bù trừ công nợ phải thu, phải trả nội bộ không đúng đối tượng hoặc cùng đối tượng nhưng không bù trừ khi lập bảng cân đối.
  • Hạch toán phải thu nội bộ với những đơn vị hạch toán độc lập, không mang tính chất thu chi hộ.
  • Bù trừ công nợ với bên thứ ba không có biên bản.
  • Hạch toán phải thu nội bộ với những đơn vị hạch toán độc lập.
  • Hạch toán vào chi phí một số khoản không phù hợp nội dung, tính chất.
  • Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang không nhất quán giữa các kì kế toán.
  • Không có biên bản kiểm kê khối lượng XDCB dở dang cuối kì.
  • Không hạch toán đầy đủ các khoản chi phí phát sinh hoặc hạch toán 1 số khoản vượt mức quy định.
  • Hạch toán vào chi phí không có đầy đủ hóa đơn, chứng từ hợp lệ.
  • Hạch toán chi phí không đúng kì.
  • Sản phẩm đã hoàn thành nhưng không cần kết chuyển.
  • Phân bổ chi phí trả trước chưa hợp lí và không nhất quán.
  • Chưa có chính sách phân bổ chi phí trả trước.
  • Chưa mở sổ theo dõi từng loại chi phí thực tế phát sinh, nội dung từng loại chi phí chưa rõ ràng, cụ thể.
  • Đưa chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp vào chi phí chờ kết chuyển mà không phân bổ vào chi phí để xác định kết quả kinh doanh phù hợp theo quy định, TK 142 còn số dư.
  • Phân loại chi phí trả trước ngắn hạn và chi phí trả trước dài hạn chưa phù hợp.
  • Chi phí liên quan đến nhiều kì nhưng không phân bổ hoặc phân bổ theo tiêu thức không phù hợp, nhất quán.
  • Gác lại chi phí không theo tiêu thức nhất định.
  • Chưa tiến hành đánh giá lại số chứng khoán tại ngày kết thúc năm tài chính, khóa sổ và lập báo cáo.
  • Chưa mở sổ theo dõi chi tiết từng loại chứng khoán đầu tư.
  • Chưa lập dự phòng cho các khoản chứng khoán giảm giá tại thời điểm kết thúc năm tài chính. Lập dự phòng không có cơ sở.
  • Không có cơ sở chứng minh cho khoản đầu tư.
  • Số liệu trên sổ kế toán và bảng cân đối không khớp nhau.
  • Không có xác nhận của bên nhận đầu tư về khoản đầu tư.
  • Số liệu trên sổ sách kế toán không khớp với số liệu trên Bảng cân đối.
  • Chi sự nghiệp không được hạch toán vào TK 161 mà hạch toán giảm nguồn kinh phí sự nghiệp.
  • Ghi giảm chi sự nghiệp mà không có biên bản nghiệm thu quyết toán của cơ quan chủ quản.
  • Cuối niên độ kế toán không chuyển chi sự nghiệp năm nay sang chi sự nghiệp năm trước.
  • TSCĐ được hình thành từ nguồn kinh phí sự nghiệp không được hạch toán tăng chi sự nghiệp, khấu hao TSCĐ được hình thành từ nguồn kinh phí sự nghiệp không được hạch toán giảm chi sự nghiệp mà hạch toán vào chi phí hoặc hạch toán nhưng không đúng, không đủ.
bạn có thể tìm hiểu thêm:
Nhận diện và xử lý sai sót